Công tác tôn giáo > Tìm hiểu Luật tín ngưỡng tôn giáo

Tìm hiểu Luật tín ngưỡng tôn giáo

30/12/2017


Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được Quốc hội khóa XIV, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại Kỳ họp thứ 2 ngày 18 tháng 11 năm 2016 và được Chủ tịch nước ký Lệnh số 12/2016/L/CTN, ngày 01 tháng 12 năm 2016 công bố luật Tín ngưỡng, tôn giáo (gọi là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016). 

Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 được ban hành nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004; thể chế hóa các quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo; cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 về quyền con người, quyền công dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời tiếp tục sự tương thích với luật pháp quốc tế trong điều kiện Việt Nam mở cửa và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 bao gồm 68 điều được chia thành 09 chương và 08 mục với các nội dung cụ thể như sau:
1- Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng thụ hưởng
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 điều chỉnh cả lĩnh vực tín ngưỡng và tôn giáo để bảo đảm phù hợp với quỵ định của Hiến pháp 2013. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016 áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Để làm rõ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của “mọi người” theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 đã quy định một số chương riêng (chương II) về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Theo đó, quy định cụ thể quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam; nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Như vậy Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã mở rộng chủ thể thụ hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho “mọi người” so với trước đây cho “công dân” trong đó quy định quy định đối với một số chủ thể như: Người bị tạm giữ, người bị tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc,...đều có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo một cách phù hợp. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng mở rộng quyền và cơ chế bảo đảm cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt và hoạt động tôn giáo. Với những quy định này, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã phản ánh đầy đủ phạm vi điều chỉnh của Luật và thể hiện một cách cơ bản nhất chính sách của Nhà nước trong việc ghi nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của con người.
2- Về các hành vi bị nghiêm cấm liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
Bảo đảm thực hiện Điều 14 Hiến pháp 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định các nhóm hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo bị cấm khi xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
Việc quy định cụ thể các hành vi bị nghiêm cấm tạo cơ sở pháp lý để tổ chức cá nhân biết mình được làm gì, không được làm gì, đồng thời làm căn cứ để cơ quan chức năng quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thuận lợi.
3- Về hoạt động tín ngưỡng
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định các nguyên tắc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng phải bảo đảm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phải bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm, bảo vệ môi trường.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử người đại diện hoặc thành viên ban quản lý. Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản công nhận người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng trong thời hạn theo quy định.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định, cơ sở tín ngưỡng phải đăng ký hoạt động tín ngưỡng đến Ủy ban nhân dân cấp xã. Việc đăng ký hoạt động tín ngưỡng được thực hiện một lần, trường hợp tổ chức hoạt động tín ngưỡng không có trong văn bản đã dăng ký thì người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm đăng ký bổ sung đến Ủy ban nhân dân cấp xã trước ngày diễn ra hoạt động tín ngưỡng.
Nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quản lý, sự dụng các khoản thu từ việc tổ chức lễ hội, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định trách nhiệm của người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng trong việc thông báo về các khoản thu, mục đích sử dụng các khoản thu đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4- Về đăng ký hoạt động tôn giáo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định ba chủ thể được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, gồm: Thứ nhất, là tổ chức tôn giáo đã được công nhận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho tín đồ tại những nơi chưa đủ điều kiện thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; thứ hai là tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho những người thuộc tổ chức khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định; thứ ba là những người theo tôn giáo không thuộc hai trường hợp vừa nêu được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định.
5- Về đăng kí hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định điều kiện để tổ chức được cấp chứng nhận hoạt động tôn giáo khi: (1) có giáo lý, giáo luật, lễ nghĩ; (2) có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật; (3) tên của tổ chức không trùng với tên tổ chức tôn giáo hoặc tổ chức tôn giáo đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên danh nhân, anh hùng dân tộc; (4) người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; (5) có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở...
Theo quy định hiện hành, việc đăng ký hoạt động tôn giáo tập trung là bước chuẩn bị tiến tới công nhận về mặt tổ chức cho tôn giáo (pháp nhân phi thương mại). Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định để được công nhận về mặt tổ chức, tổ chức tôn giáo phải đáp ứng đủ 6 điều kiện, như: (1) Hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 5 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký chứng nhận hoạt động tôn giáo; (2) Có hiến chương theo quy định; (3) người đại diện, người lãnh đạo tổ chức; (4) có cơ cấu tổ chức theo hiến chương; (5) có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (6) nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vây, về thời gian để công nhận về mặt tổ chức tôn giáo từ khi được cấp giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo tập trung là 5 năm (so với trước là 20 năm).
Cùng với việc, công nhận tổ chức tôn giáo Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng quy định việc công nhận tổ chức tôn giáo trực thuộc là cấp hành chính thuộc tổ chức tôn giáo theo Hiến chương (điều lệ). Về nội dung này, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định các điều kiện thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc như: (1) Hiến chương của tổ chức tôn giáo có quy định về việc thành lập, chia tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc; (2) có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở...
6- Về phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử và thuyên chuyển chức sắc, chức việc
- Đối với chức sắc. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định sau khi thực hiện việc phong phẩm, suy cử chức sắc, tùy theo phẩm vị chức sắc, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương và cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi chức sắc cư trú và hoạt động tôn giáo. Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức tôn giáo, họ và tên, phẩm vị, địa bàn hoạt động, tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo kèm theo sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp của chức sắc. Trong trường hợp người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc không đáp ứng quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tôn giáo hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc.
- Đối với chức việc. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định trước khi thực hịện bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc, tùy theo chức danh của chức việc, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi hồ sơ đăng ký đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương và cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng tôn giáo cấp tỉnh nơi chức việc cư trú và hoạt động tôn giáo. Sau khi nhận đươc văn bản trả lời của cơ quan quản lý về tín ngưỡng tôn giáo, tổ chức tôn giáo mới được tiến hành bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc. Khi có kết quả bổ nhiệm bẩu cử, suy cử làm chức việc, tổ chức tôn giáo thông báo kết quả đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng theo phân cấp.
- Việc thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của chức sắc, chức việc. Luât Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh ở cả nơi đi và nơi đến. Trước khi thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành là người đang bị buộc tội hoặc chưa được xóa án tích, tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi dự kiến thuyên chuyển đến. Ủy ban nhân dân có trách nhiệm trả lời bàng văn bản; trường hợp từ chối đăng ký phải nêu rõ lý do.
7- Về cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng tôn giáo: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chỉ rõ các tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo với các điều kiện theo qụy định, gồm: Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo; có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo; có chương trình, nội dung đào tạo; có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo. Trong chương trình, có nội dung giảng dạy môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh việc thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được mở các lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Việc mở lớp được chia thành hai trường hợp cụ thể: (1) Việc mở lớp bồi dưỡng người chuyên hoạt động tôn giáo thì tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh nơi mở lớp. Văn bản đăng ký nêu rõ tên lớp, địa điểm, lý do, thời gian học, nội dung, chương trình, thành phần tham dự, danh sách giảng viên; (2) Việc mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo không phải cho người chuyên hoạt động tôn giáo thì tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi mở lớp.
8- Các hoạt hoạt động tôn giáo thường xuyên
- Về hoạt động tôn giáo hàng năm. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chậm nhât là 30 ngày kể từ ngày được công nhận, chấp thuận hoặc được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc chỉ cần thực hiện một lần.
- Về các hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã tách hội nghị thường niên và đại hội để điều chỉnh ở các điều luật khác nhau. Nếu là hội nghị thường niên thì tổ chức chỉ cần thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân cấp huyện, cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương) chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức hội nghị; nếu là đại hội, tổ chức phải được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi tổ chức đại hội.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng đã quy định về việc tổ chức hội nghị liên tôn giáo, hội nghị có yếu tố nước ngoài của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc. Đối với các hội nghị này, trước khi thực hiện các tổ chức có trách nhiệm gửi văn bản đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
- Về những cuộc lễ, giảng đạo ngoài cơ sở tôn giáo, địa điểm hợp pháp. Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 thì thẩm quyền được giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh. Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi tổ chức cuộc lễ, giảng đạo có trách nhiệm hỗ trợ bảo đảm an ninh, trật tự cho cuộc lễ, giảng đạo.
9- Về hoạt động trong lĩnh vực xuất bản, từ thiện xã hội của tổ chức tôn giáo
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thực hiện hoạt động xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của pháp luật về xuất bản và quy định khác của pháp luật.
Ví dụ: Luật Phòng chống HIV/AIDS, khoản 1 Điều 19. Tổ chức xã hội tham gia phòng, chống HIV/AIDS quy định: Nhà nước tạo điều kiện cho tổ chức tôn giáo, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức xã hội khác thành lập các cơ sở nhân đạo, từ thiện để chăm sóc, nuôi dưỡng người nhiễm HIV và thực hiện các hoạt động khác trong phòng, chống HIV/AIDS.
10- Về tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tố chức tôn giáo
- Đối với việc quản lý, sử dụng tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 xác định tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo gồm tài sản được hình thành từ các nguồn (đóng góp của thành viên tổ chức quyên góp, tặng cho của tổ chức, cá nhân hoặc các nguồn khác theo quy định của pháp luật). Các tài này phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo được hình thành theo tập quán, do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn tài sản bằng quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Đối với đất cơ sở tín ngựỡng, đất cơ sở tôn giáo, về các hoạt động liên quan đến đất đai như sở hữu đất đai, thẩm quyền giao đất, đất cơ sở tôn giáo, quyền và nghĩa vụ của cơ sở tôn giáo trong sử dụng đất đã được quy định tại Luật Đất đai năm 2013. Cụ thể, nhà nước giải quyết đất đai cho tôn giao xuất phát từ nhu cầu, tùy theo quỹ đất và quy hoạch của địa phương. Theo Nghị quyết số 24 của Thường vụ Quốc hội Khóa XI, Nhà nước không trả lại các tài sản, cơ sở mà các tổ chức tôn giáo đã hiến cho nhà nước trước tháng 7 năm 1991. Nếu các cơ sở đã hiến sử dụng không đúng mục đích thì điều chỉnh cho phù hợp. Nếu không sử dụng mà tổ chức tôn giáo có nhu cầu thì cấp quyền sử dụng cho các cơ sở tôn giáo.
- Đối với việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật về xây dựng. Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo thực hiện như quy định của pháp luật về xây dựng đối với các công trình, nhà ở riêng lẻ xây dựng trong đô thị, trung tâm cụm xã, trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa, cách mạng. Việc tu bổ, phục hồi cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo là di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xếp hạng; việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới công trình phụ trợ thuộc các cơ sở này thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật về xây dựng.
- Đối với việc di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định việc di dời công trình tín ngưỡng, công trình tôn giáo vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về xây dựng.
11- Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài
- Đối với người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu được sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác; được mời chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài đến giảng đạo; được học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam; được các tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm, bổ nhiệm suy cử chức sắc, chức việc theo Hiến chương của tổ chức tôn giáo,...
- Đối với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở Việt Nam. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ được thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế nhưng phải theo hiến chương của tổ chức tôn giáo và phù hợp với pháp luật Việt Nam; được tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài; được gia nhập tổ chức tôn giáo nước ngoài theo hiến chương và quy định của pháp luật.
12- Vquản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo
- Về phương thức quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo: Cơ bản các quy định trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã thể hiện được quan điểm: Tôn trọng, bảo hộ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; hạn chế sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các công việc nội bộ của tổ chức tôn giáo, việc quy định nội dung và hình thức quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được xem xét dưới góc độ các biện pháp của Nhà nước để bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Chuyển đổi phương thức quản lý nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo từ kiểm soát sang giám sát và hướng dẫn; từ cơ chế xin phép - cấp phép hoặc đăng ký - chấp thuận sang cơ chế đăng ký - thẩm định theo các điều kiện được quy định cụ thể, rõ ràng; tăng cường hình thức thông báo trước một thời hạn nhất định trên cơ sở phân định rõ tính chất, mức độ khác nhau của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để có phương thức quản lý phù hợp.
- Về trách nhiệm, phân cấp quản lý nhà nước: Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện phân cấp thẩm quyền quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở Trung ương và địa phương theo hướng chuyên môn hóa, bảo đảm phù hợp với tính chất, mức độ của từng nội dung quản lý; đồng thời phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể quản lý và thống nhất với các quy định của pháp luật có liên quan.
- Về thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo: Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 quy định thanh tra chuyên ngành về tín ngưỡng, tôn giáo thực hiện một số nhiệm vụ như sau: (1) thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban nhân dân các cấp; (2) thanh tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
- Về khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về tín ngưỡng, tôn giáo: Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 quy định người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ và các tổ chức cá nhân khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính, khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật có liên quan.
- Về xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo: Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 quy định tổ chức, cá nhân tôn giáo có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật thì theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 cũng quy định cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo khi thi hành công vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với hành vi vi phạm như: (1) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định của Luật này và pháp luật có liên quan; (2) thiếu trách nhiệm trong quản lý để xảy ra vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; (3) vi phạm quy định về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo./.
 
 Danh Xuân
|< < 1 > >|


 
 
Copyright © 2014 Ban Dân vận tỉnh ủy Gia Lai
Chịu trách nhiệm:  
Giấy phép số: 10/GP-STTTT ngày 22 tháng 12  năm 2014 của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Gia Lai
Phát triển bởi Trung tâm Công nghệ thông tin và Truyền thông Gia Lai.
Địa chỉ: 02 Hai Bà Trưng, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai. Điện thoại: (0269) 3716046. Email: bandanvangl@gmail.com